Ông Nhu là con trai thứ tư trong gia đình. Cha ông, Ngô Đình Khả, từng nắm giữ vị trí quan trọng trong triều đình Huế, nhưng vào thời điểm ông Nhu chào đời năm 1910, người Pháp đã phế truất vị hoàng đế mà ông phụng sự. Vì lòng trung thành với chủ, ông đã từ chức và đưa gia quyến về quê nuôi trâu và trồng lúa, một bước lùi đáng chú ý, nếu không nói là đáng khâm phục. Thái độ phản kháng sự can thiệp của Pháp vào chính sự Việt Nam đã củng cố một ý thức danh dự và trách nhiệm dân tộc của gia đình - những phẩm cách đã được truyền thừa cho cả sáu người con trai của ông.
Mỗi sáu giờ sáng, chín người con của ông Khả tập hợp lại. Sau đó, đến trường. Ông cũng bảo ban họ siêng năng làm việc đồng áng, lấm lem bùn đất cùng những nông dân địa phương. Mặc dù bản thân ông Khả mặc áo choàng lụa truyền thống của một người có học và để móng tay dài năm phân như một biểu hiện của vị thế quan lại, ông không ngừng quở trách các con trai rằng “một người đàn ông phải thấu hiểu đời sống của nhà nông".
Ông Khả đích thân giám sát việc học hành của các con trai, ở trường và ở nhà. Ở trường, ông yêu cầu họ theo chương trình Âu châu. Ở nhà, ông dạy họ tiếng phổ thông kinh điển. Ngoài sự chú trọng về học thuật, nhà ông Khả là nơi học tập về quan điểm chính trị chống Pháp theo dân tộc chủ nghĩa.
Vào thời điểm ông Nhu và Lệ Xuân gặp nhau lần đầu tiên, những người anh trong gia đình họ Ngô đã xác lập những sự nghiệp lỗi lạc. Người anh cả bấy giờ đang làm thống đốc tỉnh. Người anh thứ hai đang trên bước đường trở thành một trong những vị giám mục Công giáo đầu tiên ở Việt Nam. Người anh thứ ba, thành viên trực tiếp góp bàn tay vào việc nhào nặn tương lai dân tộc, là Tổng thống tương lai của miền Nam Việt Nam, ông Ngô Đình Diệm.
Trong những cuộc phỏng vấn về sau với các ký giả Tây phương, bà Nhu thẳng thắn thừa nhận rằng cuộc hôn nhân của bà với ông Nhu là vấn đề thực tế, không phải chuyện yêu đương lãng mạn. “Tôi chưa từng có một tình yêu ngọt ngào". Bà thú nhận với Charlie Mohr của tạp chí Time. "Tôi đã đọc những thứ đó trong sách vở, nhưng tôi không tin chúng thật sự tồn tại. Hay có lẽ chỉ với một số rất ít người mà thôi".
Chân dung bà Trần Lệ Xuân trong trang phục cô dâu năm 1943. |
Nhưng cô gái trẻ Lệ Xuân là một diễn viên có tài, và cô biết nhận ra một vai diễn phù hợp. Năm 1940, ngay trước khi gặp ông Nhu, những nữ sinh trường múa ba lê Madame Parmentier đang chuẩn bị diễn vở Bạch Tuyết. Những nữ sinh người Pháp và Việt khác từ chối đóng vai mụ phù thủy gớm ghiếc, nhưng Lệ Xuân đã nhìn thấy tiềm năng trong vai diễn này. Cô hẳn không bao giờ được cho đóng Bạch Tuyết; vai đó sẽ vào tay một cô gái Pháp da trắng. Song cô vẫn có thể tỏa sáng trên sân khấu bằng một vai diễn độc ác xuất sắc.
Lệ Xuân đã nhìn thấy ông Nhu như một cơ hội. Bất luận vì tình yêu, tham vọng, hay là lợi dụng lẫn nhau, Lệ Xuân và ông Nhu đã đính ước không lâu sau buổi gặp gỡ trong vườn. Họ đã đính hôn trong ba năm, một truyền thống của người Việt, mặc dù việc đó không phải theo ý của cha mẹ Lệ Xuân. Nhưng trong quãng thời gian ấy, từ 1940 đến 1943, cái thế giới mà Lệ Xuân hằng biết đã hoàn toàn thay đổi.
Thế chiến thứ hai đã nổ ra ở Âu châu. Sự bại trận của nước Pháp đã gần như cắt phăng Đông Dương khỏi mẫu quốc. Chính quyền Vichy ở Pháp cho phép Nhật Bản chuyển quân đến miền Nam Trung Quốc thông qua Bắc Việt, xây dựng những sân bay, trưng thu lương thực, và đóng 6.000 quân ở Bắc Kỳ.
Những nhà ngoại giao Nhật, người thông ngôn, những chuyên viên tình báo, và doanh nhân người Nhật đã chiếm giữ những vị trí danh dự trong những cuộc họp xa lông chiều thứ Ba tại nhà ông Chương, và những tay thực dân Pháp ở Đông Dương rất lấy làm khó chịu về điều này. Họ đơn giản là không thể, hoặc không chịu tin rằng sự đầu hàng của họ ở Âu châu đã làm phương hại đến quyền cai trị của họ ở Đông Dương. Vì vậy trong một thời gian, người Pháp gắng sức níu kéo cuộc sống thường ngày của mình, giữ lại những người hầu, ăn mặc trang trọng trong bữa tiệc tối, và tụ tập tại các quán cà phê để tán gẫu về những chuyến du ngoạn cuối tuần về miền biển hoặc người thắng tại các cuộc đua ngựa. Người Pháp có thể đã trao chứng từ tài sản thuộc địa của họ ở Đông Dương cho người Nhật, nhưng trong năm năm tiếp theo, họ sẽ tìm mọi cách để giữ thể diện cho mình. Lá cờ Pháp vẫn tiếp tục phất phới. Những tiệm bánh, bị cắt mất 20.000 tấn lúa mì nhập khẩu hàng năm, vẫn gắng gượng dựng lên một ảo tưởng cuối cùng, đã nhồi bánh mì từ bắp và gạo. Đông Dương là khu vực Đông Nam Á duy nhất dưới sự kiểm soát của Nhật Bản cho phép những người thực dân da trắng lưu lại.
Năm 1942, phiếu lương thực đã được cấp cho những người Âu châu để cung cấp gạo, muối, đường, dầu ăn, xà phòng, diêm, thuốc lá "tốt", và nhiên liệu cho họ. Người Pháp vẫn được thiên vị với những thứ như thịt và sữa đặc, họ được ưu tiên cung cấp trước nhất. Tất cả những điều này được biện hộ trong tư duy thời thực dân bởi quan niệm rằng người An Nam đã quen với chế độ ăn uống đơn điệu, trong khi người Âu châu sẽ ngã bệnh với khẩu phần ăn kém đa dạng.
Mặc dù gia đình ông Chương thật ra không phải chịu khổ, họ đã bị tước đi những thứ hàng hóa xa xỉ mà họ đã quen dùng. Nhưng nhà ông Chương là bậc thầy về những thủ đoạn chính trị và họ xoay xở khá tốt - ít ra trong một thời gian. Sự thâm nhập của người Nhật vào chế độ trên danh nghĩa của Pháp đã tạo nên một tình trạng chính trị khá rối ren. Ai là kẻ đang nắm quyền, người phương Tây hay người châu Á? Ai sẽ cảm thông hơn với những nguyện vọng dân tộc chủ nghĩa của người Việt? Gia đình ông Chương cố gắng vun đắp những tình bạn quan trọng với cả hai phía, nhưng rốt cuộc họ đã chọn chia sẻ số phận với người Nhật dưới ngọn cờ "Tình huynh đệ da vàng". Người Nhật khuyến khích người Việt Nam tự coi mình như một phần của Khối thịnh vượng chung Á châu - được lãnh đạo bởi Nhật Bản, tất nhiên. Ít ra người Nhật không quả quyết sự ưu việt dựa trên màu da của họ.
Mẹ của Lệ Xuân đã đăng ký những khóa học tiếng Nhật, và tình yêu của bà với Yokoyama, phái viên của hoàng đế xứ mặt trời mọc ở Hà Nội, đã sớm được tưởng thưởng. Năm 1945, tình nhân Yokoyama của bà được bổ nhiệm làm công sứ An Nam, và Trần Văn Chương, chồng bà, được đề bạt vào nội các chính phủ bù nhìn của Nhật Bản.
Lệ Xuân và Ngô Đình Nhu kết hôn trong tuần đầu tiên của tháng Năm, 1943 tại thánh đường Saint Joseph ở Hà Nội, hay như cách gọi của dân Hà Nội, Nhà Thờ Lớn. Đó là lần thứ hai Lệ Xuân đặt chân vào giáo đường mang phong cách tân gô-tích cao chót vót này. Lần đầu là vào ngày trước đó để làm lễ cải đạo sang Công giáo. Cô mang tất tay dài và một chiếc khăn choàng đăng ten quấn quanh mái tóc đen và chảy dài xuống đôi vai. Lời tuyên xưng đức tin, mà Lệ Xuân đọc to, khẳng định niềm tin mới của cô vào Thiên Chúa, Chúa Giê-su, Chúa thánh thần, và giáo hội cùng tất cả những phép bí tích của nó. Vị linh mục vừa đọc nhân danh Cha, và Con, và Thánh thần vừa rưới nước thánh lên trán Lệ Xuân ba lần, sau đây mọi tội lỗi của cô đã được rửa sạch. Tiếp đó Lệ Xuân được đặt tên thánh. Người ta chọn tên Lucy, theo tên thánh Lucia, thánh bản mệnh của người mù. Là một người Cơ đốc giữa những kẻ ngoại giáo, Lucy đã chọn giữ mình đồng trinh và tự chọc mù mắt thay vì lấy một kẻ ngoại giáo. Nét đẹp nhất của Lệ Xuân, đôi mắt long lanh của cô, mở to trong suốt buổi lễ, một thái độ thận trọng mới mẻ đối với những cảm giác mà cô phải dè chừng hầu hết thời gian - tính ưa dâm dục, sự tự mãn và kiêu căng.
Một thời gian trước lễ cưới và sau những cánh cửa đóng kín, gia đình chú rể đã trả một món tiền thách cưới, của hồi môn, cho gia đình Lệ Xuân. Theo truyền thống, số tiền này là để bù đắp cho sự mất mát của gia đình sau khi cô dâu xuất giá. Việc nhà Chương là một gia đình giàu có ở thành thị không làm thay đổi phong tục này. Nhà họ Ngô có thể trả hoàn toàn bằng tiền hoặc bằng những vật dụng thiết thực: quần áo, đồ trang sức, thịt, và trà. Số tiền hồi môn dành cho Lệ Xuân được quyết định bởi vị thế gia đình cô, và nhờ sự thay đổi lòng trung thành của mình, vị thế của gia đình ông Chương quả thực vẫn rất tốt đẹp giữa một Hà Nội bị Nhật Bản chiếm đóng.
Khu vườn nhà ông Chương biến thành một ốc đảo vương giả dành cho buổi tiếp khách sau lễ cưới. Không khí buổi đầu tháng Năm thơm ngát với những bông hoa huệ tây nở rộ và hoa đại nồng nàn. Những phụ nữ diện quần áo lụa và mỹ phẩm được cấp hạn chế. Một số người có thể lôi từ trong kho những bộ trang phục được giữ gìn kỹ lưỡng từ thời của những bữa tiệc thảnh thơi, trước khi cơn lốc chiến tranh ập đến. Số khác ăn vận rõ ràng là hàng lậu thuế: những phụ nữ biết chọn đàn ông khôn khéo chưng diện những mốt mới nhất.
Tình cảnh thiếu thốn của thời chiến tuy vậy vẫn không cắt đứt nguồn cung cấp rượu sâm banh Pháp của gia đình ông Chương. Nó chảy tràn vào những chiếc ly có chân kêu lanh canh của những thực khách, đó là, như bà Nhu bâng khuâng nhớ lại, “tất cả Hà Nội” - tức là tất cả những nhân vật quan trọng ở Hà Nội vậy.
Tất cả mọi cặp mắt đều hướng về cô dâu mười tám tuổi khi cô bước vào khu vườn. Trong bức ảnh cưới trang trọng của Lệ Xuân, chụp vào ngày cưới của cô, nét mặt cô bình tĩnh và nghiêm trang. Hai bàn tay cô đan lại phía trước nhưng bị che khuất khỏi ống kính camera bởi những ống tay áo rộng của chiếc áo cưới truyền thống. Phần rộng của chiếc áo lụa đỏ được thêu những ký tự tiếng Hoa về hạnh phúc lứa đôi và lấm chấm những bông hoa nhiều họa tiết thanh tú. Những dải băng vàng vương giả vòng quanh cổ và hai ống tay áo, một phong cách phù hợp với con gái của một công chúa hoàng tộc. Một trái tim lớn bằng ngọc bích rạng rỡ trên chiếc vòng cổ của cô; đôi khuyên tai hoa hồng bằng kim cương trang nhã tuyệt vời. Chiếc khăn đóng màu đen xếp nếp trên trán. Mái tóc chẻ ngôi giữa và quấn thành lọn quanh đầu. Mắt long lanh viền phấn và đôi mày kẻ thật kỹ. Đôi môi lấm vết son, và má đánh phấn hồng. Cô trông như một búp bê sứ sẽ rạn vỡ ngay khi đánh bạo nở nụ cười, nhưng một mối thông gia bền vững như thế này là một vấn đề hệ trọng. Lệ Xuân đã sắm vai trò của mình một cách không thể chê trách. Từ đây trở đi, cô sẽ là bà Nhu.
Phần 1, phần 2, phần 3, phần 4, phần 5, phần 6
Hết trích đăng.
(Trích sách Madam Nhu Trần Lệ Xuân - Quyền lực Bà Rồng)